Quê tôi vốn ở Bình Phước,àokhímiềnĐôngCâygònhoàiniệmkhóquênvềquênhàgia đình đức hạnh một vùng đất Đông Nam bộ đầy nắng và gió. Khoảng đời niên thiếu của tôi gắn liền với hình ảnh những nhánh gòn vươn cao nở trắng một góc trời, thi thoảng đan xen những quả xanh, quả vàng đu đưa trước gió rồi khẽ khàng rơi rụng như một cách nhẹ nhàng để kết thúc một đời bông.
Người dân quê tôi hiếm khi gọi đầy đủ tên gọi của cây bông gòn mà chỉ đơn thuần gọi bằng hai từ mộc mạc là cây gòn. Hầu như khu vườn nào ở quê tôi cũng có cây gòn, lúc thì mọc hoang, có khi do người ta trồng để thu hoạch. Cây gòn thông thường sẽ được trồng dựa mé rạch hoặc khuất sau hiên nhà để không chiếm quá nhiều diện tích đất mà vẫn che bóng mát cho cây ăn trái trong vườn, hoặc làm trụ bám cho dây tiêu phát triển.
Cha tôi thường ví cây gòn như đứa con nhà nghèo nên rất dễ nuôi và mau lớn. Cũng bởi, cây gòn mọc hoang bắt đầu bằng những hột khô khi trái bung bông gòn ra. Chúng thường theo gió phiêu bạt rồi rớt đâu thì mọc cây con ngay đó. Một nhánh gòn được chặt ra từ thân cây rồi chôn vào đất đắp bùn non lên cũng sống và phát triển xanh tốt bình thường.
Cây gòn sinh trưởng xanh tốt nhờ mưa, kết trái nhờ ánh nắng và gieo hạt nhờ gió. Cây gòn mau lớn nên gốc cây thường to lớn như cây sao trong vườn nhà nhưng thân sao thường rất rắn chắc, còn khi rời khỏi mặt đất thì gỗ của cây gòn vốn không phải là loại hữu dụng, thậm chí rất mỏng và mau mục.
Ngày còn bé, lũ trẻ chúng tôi không có thú vui gì để tiêu khiển nên thường loanh quanh dưới mấy gốc cây gòn mọc sát chân đê. Dưới ánh nắng chiều nhàn nhạt của buổi ban mai, chúng tôi nằm tựa lưng vào thân gòn, lần giở từng trang sách hoặc nằm lăn lóc trên cỏ và chơi đùa đến chập tối mới chịu về. Bọn trẻ con tinh nghịch như chúng tôi khi ấy, thường vít những cành gòn thấp để hái lá rồi nghịch ngợm vò nát, giã nhuyễn lọc lấy nước cho vào bịch nhựa, thêm vào tí nước rửa chén vào quậy đều cho sủi bọt. Sau đó, đi tìm những nhánh tre non, tuốt hết lá uốn thành một hình tròn nhỏ. Cả bọn cứ thế xúm quanh một chiếc túi nhựa thay nhau nhúng nhẹ vào thứ hỗn hợp vừa pha, lần lượt thổi ra từng chiếc bong bóng đủ sắc màu bay khắp nơi trong gió.
Đến thời điểm ra hoa đậu quả, cây gòn sẽ trụi lá dần, chỉ còn trơ lại những chùm quả, quả nào cũng tròn trĩnh, da láng bóng. Thi thoảng chúng va vào nhau khi trời trở gió, phát ra những âm thanh cộc cộc nghe rất vui tai. Những ngày trưa hè nhàn nhã, lũ trẻ chúng tôi thường quẩn quanh dưới gốc, dùng cây để chọi lấy quả. Quả gòn khi rời cành, rớt xuống đất nghe vọng lại từng tiếng "bụp bụp", khiến bọn trẻ vô cùng thích thú. Khi đã vui đùa thích thú, cả bọn sẽ lại ngồi bệt dưới cỏ, xếp thành vòng tròn, bóc vỏ gòn để lấy bông.
Số bông ấy tôi thường mang về cho mẹ. Tranh thủ những ngày trời oi nồng, mẹ sẽ trải chúng ra phơi khô, kết thành sợi nhỏ, dài vừa đủ xâu qua lỗ nắp đèn dầu (hỏa) làm từ valve xe đạp. Bông gòn có đặc tính ngấm dầu rất nhanh với sức cháy rất bền nên được nhiều người ưa chuộng. Những gia đình ở nông thôn khi ấy thường trữ hai đến ba cái đèn như vậy để thắp sáng, cũng vì thời kỳ ấy chưa có điện. Những buổi tối ở nông thôn, cũng nhờ vài chiếc đèn mộc mạc ấy mà trở nên êm đềm, sáng sủa hơn.
Ngoài tác dụng thắp sáng, bông gòn sau khi được thu hoạch, mẹ tôi sử dụng làm gối là chủ yếu. Mẹ tôi có kiểu may gối ống vuông vức rất khéo léo. Nhìn cái gối ống bằng gòn do mẹ làm, bọn trẻ ham ngủ như tôi chỉ muốn nằm lên ngay. Chị em tôi từ nhỏ tới lớn đều nằm ngủ bằng nệm gòn do mẹ may. Tấm nệm gòn nằm rất êm ái, đã nâng đỡ biết bao giấc mơ êm đềm mà dịu dàng suốt khoảng đời tuổi thơ cho chúng tôi.
Trái gòn khi đã lấy hết bông, bà con quê tôi sẽ tận dụng vỏ gòn dùng làm củi chụm. Mẹ tôi cũng thường hốt tro gòn ngâm trong một cái khạp, sau đó lắng nước tro gòn này gội đầu, chẳng cần đến xà bông mà tóc vẫn mềm mại, ngát hương. Hột gòn là phần còn lại cuối cùng khiến bọn trẻ chúng tôi háo hức nhất, vì có thể bán lấy tiền để dành ăn bánh. Những ngày còn thơ, chỉ cần dưới sông có chiếc ghe chèo với tiếng rao êm ái: "Ai lông vịt, hột gòn đổi vôi đổi cớm hơ...", tôi lập tức bưng thau hột gòn đen nhánh ra bán, nhanh chân chạy qua tiệm bánh, mua ít quà vặt tuổi thơ. Giờ ngẫm lại mới thấy những ký ức ngày ấy thật ngọt ngào và hạnh phúc quá đỗi.
Những năm gần đây, đời sống ngày càng hiện đại hơn, khiến cây gòn gần như biến mất. Những đứa trẻ như con tôi sau này cũng chẳng rõ cây gòn hình thù ra sao, công dụng thế nào. Thi thoảng, trở về Bình Phước, bất chợt nhìn thấy một vài cây gòn đứng cô đơn trong gió, lòng tôi chợt nao nao. Nhớ thương nhiều những năm tháng cây gòn đã tận tâm phục vụ con người trong thời kham khổ. Rồi lại nhớ cả những trò đùa nghịch bông gòn của mình. Nhớ đôi tay mẹ tỉ mẩn chà gòn bụi bay đầy đầu. Mẹ đã đi xa, để lại đàn con với biết bao nỗi nhớ khôn nguôi.